Nói chuyện trên đài SÀI GÒN-HOUSTON (27/7/2017)

(Đề tàiTÌM HIỂU VỀ BS YERSIN)

QL= Thưa quý thính giả,

Đây là chương trình Văn Hóa Việt do Trường Truyền Thống Việt (TTTV) phụ trách, đến với quý thính giả của đài SàiGòn- Houston (SGH) mỗi tháng một lần, vào ngày thứ Năm của tuần lễ thứ tư. Quý Linh xin kính chào quý thính giả của đài SGH.

Thưa quý thính giả,

Xã hội VN ngày nay vẫn còn mang những nét của văn hóa và văn minh Tây phương do ảnh hưởng của gần một trăm năm trong vòng bảo hộ của nước Pháp từ năm 1858 đến năm 1945. Nước Pháp đã ảnh hưởng trên rất nhiều phạm vi của xã hội VN, từ ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật, phong tục, đến tín ngưỡng, tư tưởng chính trị, nhân sinh quan, v.v…

Trong thời kỳ của chủ nghĩa thực dân (colonialism), người Pháp rất hãnh diện về sứ mệnh khai hóa (mission civilisatrice) mà họ đem đến các dân tộc bị họ xem là lạc hậu. Trong số những công tác khai hóa của người Pháp ở Đông-Dương, họ hãnh diện về việc mở mang giáo dục, y tế và bảo tồn văn hóa truyền thống. Về văn hóa, trường Viễn-đông Bác-cổ được thành lập ở Hà-Nội từ năm 1900 để khảo cổ ở Đông-Dương và tìm hiểu các xã hội Đông-phương. Về giáo dục, đó là lý do cho sự thành lập trường Cao-đẳng Hà-Nội với nhiều ngành chuyên môn: y dược, luật, thương nghiệp, sư phạm, mỹ thuật, kỹ thuật. Về y tế, trường Y Dược có mục đích đào tạo các y sĩ, y sĩ trợ tá và dược sĩ. Các nhà thương được thành lập, và quan trọng nhất cho nền y tế công cộng Đông-Dương là Viện Pasteur. Vị Bác-sĩ được cử giám đốc Viện Pasteur là Bác-sĩ Alexandre Yersin.

Thưa quý thính giả, đề tài của buổi nói chuyện văn hóa hôm nay là về Bác sĩ Alexandre Yersin, và diễn giả hôm nay là Bác sĩ Nguyễn Quý Khoáng.

Chúng tôi xin mời BS. Khoáng lên tiếng chào quý thính giả của đài SGH.

QK= Xin kính chào quý vị thính giả đài Sàigòn-Houston. Tôi rất hân hạnh được tham gia buổi nói chuyện hôm nay.

QL= Chúng tôi xin được có đôi lời giới thiệu về BS. Nguyễn Quý Khoáng.

Bác sĩ NGUYỄN QUÝ KHOÁNG

- Tốt nghiệp Bác sĩ Đại học Y Khoa Saigon khóa 1968-1975 với chuyên khoa X Quang.

- Được bổ nhiệm làm việc tại bệnh viện Đa Khoa Tỉnh Tây Ninh từ 1977 đến 1983. Làm việc tiếp tục tại bệnh viện An Bình (là bệnh viện Triều Châu, Saigon, trước 1975) từ 1983 đến 2009 với chức vụ là Trưởng Khoa X Quang đồng thời là chủ nhiệm bộ môn Chẩn đoán hình ảnh (là tên mới của ngành X Quang) Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch, Saigon.

- Được mời sang Pháp làm giảng sư X Quang (Maitre de conférences invité en Radiologie) tại Đại học Y khoa Nancy những năm 1997, 1998 và 1999.

- Nghỉ hưu năm 2009 nhưng tiếp tục làm việc tại Trung tâm Chẩn đoán Y Khoa Medic và giảng dạy tại các viện, trường cho đến năm 2013.

- Định cư tại Hoa Kỳ, bang North Carolina năm 2013 theo diện đoàn tụ gia đình.

- Từ năm 2014, lập một Website về Chẩn đoán hình ảnh <www.cdhanqk.com> để truyền đạt các kiến thức chuyên môn X Quang tới các đồng nghiệp và sinh viên Y khoa cùng các kỹ thuật viên X Quang.

 

1/QL= Ngành Y thế giới có rất nhiều danh nhân. Xin anh cho biết trong ngành Y, có những danh nhân nào mà anh ngưỡng mộ?

QK= Khi còn nhỏ, tôi đã khâm phục các vị Cha và các Sơ đã hy sinh cả cuộc đời của mình để săn sóc cho những người bị bệnh Cùi.

- Đến khi lên Trung học, tôi ngưỡng mộ BS Albert Schweitzer (1875-1965), một người Pháp gốc Đức, đã sống 40 năm tại xứ Gabon ở Châu Phi để săn sóc sức khỏe cho những người dân bản xứ còn rất sơ khai. Ông đã nhận giải thưởng Nobel về Hòa Bình năm 1952. Nhà bác học Einstein khen ngợi ông bằng lời nói sau đây: “Albert Schweitzer là danh nhân vĩ đại nhất của thế kỷ 20, thế kỷ đau khổ này” và khi BS Schweitzer mất, người ta đã khắc lời tán thán này lên bia mộ của ông. - Rồi BS Tom Dooley (1927-1961) noi gương BS Schweitzer đã qua Lào để săn sóc cho những người dân còn rất nghèo và bị nhiều bệnh tật. Tiếc rằng ông đã mất sớm khi mới có 34 tuổi vì bệnh ung thư phổi.

- Ở Việt Nam, có BS Yersin (1863- 1943), người đã tìm ra vi trùng bệnh Dịch hạch và phát hiện ra cao nguyên Lang Bian. Nhưng chỉ từ khi nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của BS Yersin, tôi mới thấy ông cũng vĩ đại không kém gì BS Albert Schweitzer, có những mặt còn hơn nữa.

YERSIN 5 tuổi chụp cùng Mẹ                             BS YERSIN lúc 30 tuổi

2/ QL= Xin anh cho biết BS. Yersin là một nhân vật có những đặc điểm gì khiến anh khâm phục?

QK= Tôi khâm phục BS Yersin vì ông có những đặc điểm sau đây=

1/ Ông giữ đúng lời thề Hippocrate vì cho rằng ngành Y không phải là một nghề để kiếm tiền trên sức khỏe của bệnh nhân:

Bác sĩ Yersin không biết mặt cha mất trước khi ông chào đời. Nhà khoa học sống độc thân không ngừng viết thư cho mẹ kể về cuộc sống, những chuyến đi và những việc đang làm, trước sau cả ngàn bức. Khi bà cụ qua đời thì ông tiếp tục viết gửi cho người chị.Trong một lá thư viết cho Mẹ, ông có ghi: “Mẹ hỏi con có thích hành nghề Y khoa hay không. Có và không. Con có nhiều niềm vui khi điều trị những người đã đến gặp con để được hướng dẫn, nhưng con không bao giờ coi Y khoa là một nghề, phải nói rằng không bao giờ con có thể đòi tiền người bệnh cho việc chăm sóc họ. Con coi Y khoa như là một chuyên môn và là một mục vụ. Đòi tiền để chăm sóc bệnh nhân chẳng khác nào nói với người đó rằng: tiền hay mạng sống”.

2/ Mặc dù là một sĩ quan Pháp trong đội quân viễn chinh Pháp, ông hành xử khác hẳn sĩ quan thuộc địa.

Không hống hách, không bóc lột, trái lại ông đem tình yêu đến cho dân bản xứ cả Kinh lẫn Thượng, mọi việc làm đều là sự giúp đỡ về mọi phương diện của cuộc sống. Dù theo Đạo Tin Lành, ông cũng không bắt buộc người dân thuộc địa phải bỏ Đạo của mình để tin theo Chúa. Ông cứ sống bình thường, giúp đỡ mọi người, khuyên người ta sống lành mạnh về thể xác và tinh thần. Ngoài việc để lại tất cả tài sản của ông cho Viện Pasteur Đông Dương, các thiết bị thiên văn học cho Đài thiên văn Phù Liễn ngoài Bắc… BS Yersin còn không quên trợ cấp suốt đời cho những người Việt đã từng phục vụ ông bằng tiền lãi cổ phiếu mà ông đã mua sẵn.

3/ Không màng đến danh vọng:

Với những khả năng sẵn có, Yersin có thể chọn con đường dễ dàng hơn để thành đạt. Nếu Yersin ở lại Paris, làm việc với Viện Pasteur, Yersin không thiếu cơ hội để nghiên cứu và có thể nhận giải thưởng Nobel về Y Khoa như một số đồng nghiệp của ông là Emil Adolf von Behring (Nobel 1901), Alphonse Laveran (Nobel 1907), và Charles Nicolle (Nobel 1928).So với các giải Nobel Y Khoa khác, công trình nghiên cứu tìm ra vi trùng bệnh dịch hạch và sự thành công trong việc phát minh ra thuốc ngừa dịch hạch là những công trình nghiên cứu rất quan trọng. Trước khi Yersin khám phá ra nguyên nhân của dịch hạch, mỗi năm hàng chục ngàn người trên thế giới đã chết vì bệnh này. Trong thế kỷ 14-15, hàng triệu người tại Âu Châu đã chết vì dịch hạch. Nhiều thành phố làng mạc đã bị xóa tên hẳn trên bản đồ. Theo ước tính của một số nhà nghiên cứu, dịch hạch đã làm dân số thế giới giảm từ 450 triệu xuống còn 350 triệu người trong thế kỷ thứ 15. Để được xét duyệt giải Nobel, các ứng viên cần có người giới thiệu và vận động. Các quốc gia liên hệ với Yersin là Thụy Sĩ, Pháp, Việt Nam có thể làm điều đó.Tuy nhiên điều này trái với nguyện ước của Yersin nên không ai thực hiện.

Ngoài ra, công tác nhân đạo của Yersin cũng xứng đáng để nhận Nobel Hòa Bình như Albert Schweitzer đã nhận vào năm 1952. Tuy nhiên, Yersin đã không tìm kiếm những vinh quang đó. Đại văn hào Goethe có nói : “Trước một trí tuệ vĩ đại, tôi cúi đầu, trước một trái tim vĩ đại, tôi quỳ gối” thì đối với tôi, BS Yersin ứng hoàn toàn cho cả 2 vế này.

4/ Không bị dính mắc vào tiền bạc, tình ái, ăn ngủ:

Ông sống độc thân suốt đời, rất đạm bạc, làm việc nhiều, ngủ vừa đủ, không rượu chè, hút sách, không hề bị mang tiếng về tình ái và tiền bạc. Cả một đời làm việc, nghiên cứu chỉ để giúp đỡ cho người dân bản xứ, cho nhân loại. Tóm lại, ông không hề bị dính mắc vào 4 muốn (danh vọng, tiền, tình ái, ăn ngủ) như một vị Chân tu vậy.

3/ QL= Xin anh kể về thuở hàn vi của BS. Yersin, khi ông được làm việc dưới sự hướng dẫn của nhà vi trùng học nổi danh Louis Pasteur?

 QK= Alexandre Émile John Yersin sinh ngày 22 tháng 9 năm 1863 trong một gia đình theo đạo Tin Lành gồm 3 người con, một gái, 2 trai và ông là con út, tại làng Lavaux, Quận Vaud, bên bờ hồ Geneva, Thụy Sĩ. Sau khi theo học trung học phổ thông ở Lausanne, Yersin theo học Y khoa tại Đại học Lausanne được một năm. Năm 1884, Yersin sang Đức học Y khoa tại University of Marburg. Đây là trường đại học xưa nhất do người Tin Lành sáng lập từ năm 1527. Đại học Marburg cũng là trường đại học Y khoa rất uy tín tại Đức. Tại đây, Yersin theo học với Emil Adolf von Behring, người vài năm sau đó đã đoạt giải Nobel Y Khoa đầu tiên của thế giới (1901). Một thời gian sau, Yersin sang Paris (1885-1888) thực tập tại bệnh viện Hôtel-Dieu. Năm 1886, Yersin gặp Louis Pasteur nhà nghiên cứu vi trùng học nổi tiếng nhất thế giới vào thời đó. Ngưỡng mộ tài năng của Pasteur, Yersin xin vào làm nhân viên kỹ thuật của phòng thí nghiệm Pasteur tại École Normale Supérieure để có cơ hội nghiên cứu. Tại đây, Yersin trở thành phụ tá của Emile Roux, một học trò thân tín của Pasteur. Năm 1888, Yersin hoàn tất luận án tiến sĩ với đề tài Etude sur le développement de la Tuberculose expérimentale (Nghiên cứu về sự phát triển của Bệnh Lao bằng thực nghiệm). Luận án được đánh giá cao và ông được thưởng huy chương đồng. Louis Pasteur và Emile Roux quí mến ý chí, tính tình và tài năng của Yersin. Hai khoa học gia này muốn mời Yersin cùng nghiên cứu lâu dài nên đã khuyên Yersin nhập tịch Pháp để được phép ở lại làm việc tại Pháp. Yersin đã làm theo lời khuyên của những người bảo trợ mình. Yersin nhập tịch Pháp vào năm 1888. Năm 1889, Yersin còn được giao thêm nhiệm vụ giảng dạy học môn Vi sinh học tại Viện Pasteur. Thời gian làm phụ tá cho Giáo sư Roux, Yersin có cơ hội làm tại Bệnh viện nhi đồng (Hôpital des Enfants malades), nơi mà bệnh bạch hầu đang là một vấn nạn Y tế lớn lúc đó. Yersin thuyết phục Roux nên nghiên cứu về bệnh này. Roux và Yersin tiến hành một số thí nghiệm trên chuột, và từ đó phát triển một phương pháp truy tìm toxin diphthérique (độc tố bạch hầu) từ nước tiểu của bệnh nhân. Tiến thêm một bước, Yersin và Roux phát triển vắc-xin thành công dùng cho việc chữa trị bệnh bạch hầu. Đây là một khám phá đầu tiên và một cống hiến quan trọng của Yersin cho vi sinh học.

Mới 26 tuổi, Yersin tốt nghiệp tiến sĩ Y khoa, được mời làm việc tại viện Pasteur Paris, viện nghiên cứu Y khoa nổi tiếng thế giới, cuộc sống tốt đẹp và tương lai xán lạn dọn sẵn cho nhà khoa học trẻ tuổi. Tuy nhiên, Yersin không dừng lại ở đó. Ông đi theo một tiếng gọi cao cả hơn nghĩa là đi Đông Dương giúp đỡ người dân bản xứ. Năm 1891, Albert Calmette, một học trò của Emile Roux, được cử sang Đông Dương thành lập phòng thí nghiệm của Viện Pasteur tại Sài Gòn. Biết được Yersin là một nhân tài, Pasteur và Roux đã dặn Calmette cố gắng mời Yersin quay lại con đường nghiên cứu. Trước lời khuyên của các đồng nghiệp, Yersin nhận lời làm việc cho Sở Y Tế Thuộc Địa tại Sài Gòn. Mối quan hệ giữa Calmette và Yersin được hình thành từ đó.

4/ QL= Đông-Dương lúc bấy giờ là một thuộc địa của Pháp nhưng cách xa cả nửa vòng trái đất. Là một nhà nghiên cứu với tương lai rực rỡ như Yersin, ông có thể ở lại Âu châu. Xin anh cho biết nguyên do nào đã đưa đẩy BS. Yersin đến Đông-Dương?

QK= Với một thành tích đầy hứa hẹn như thế, ai cũng thấy Yersin có một tương lai sáng sủa trong khoa học. Tuy nhiên, Yersin quan niệm là “Sống mà không dịch chuyển thì không phải là sống” (Ce n’est pas une vie que de ne pas bouger). Chính vì thế mà ông đã quyết định bỏ sự nghiệp nghiên cứu trước sự kinh ngạc của hai người thầy là Pasteur và Roux để “ Đông du”. Có giả thuyết cho rằng ông muốn vừa làm Y, vừa truyền giáo như David Livingstone (1813-1873), một bác sĩ và là một nhà truyền giáo Tin Lành người Anh mà ông ngưỡng mộ từ nhỏ. Tuy nhiên, trong suốt 50 năm sống tại Việt Nam, người ta không thấy ông truyền giáo để thu nhận con chiên. Yersin xin nghỉ việc từ Viện Pasteur và đệ đơn xin làm Y sĩ cho Công ty vận chuyển đường biển ( Messageries Maritimes). Ngày 5/3/1890, ông được kêu lên phỏng vấn, và đem theo một lá thư giới thiệu của Louis Pasteur. Với một người giới thiệu nổi tiếng như thế, Công ty lập tức nhận Yersin vào làm, dù ông chưa bao giờ có kinh nghiệm đi biển. Tháng 9 năm 1890, Yersin đáp xe lửa đến Marseille và từ đó xuống tàu Oxus đi Sài Gòn. Yersin đến Sài Gòn ngày 15/10/1890, và ngay sau đó được giao nhiệm vụ mới trên tàu Volga chuyên chở hàng qua lại giữa Sài Gòn và Manila (Phi Luật Tân). Nhiệm vụ trên tàu Volga rất đơn giản và có khi nhàm chán, ông chỉ việc kiểm tra sức khỏe thủy thủ đoàn và cấp giấy chứng nhận Y tế. Do đó, Yersin có rất nhiều thời gian để học về hàng hải, hải đồ dưới sự chỉ dẫn của các thuyền trưởng. Chính những kinh nghiệm học hỏi trên tàu Volga đã cho ông biết về khí tượng học và giúp ông trong công cuộc thám hiểm Đông Dương sau này. Trên tàu Volga, Yersin còn tìm cách học tiếng Việt để ông có thể nói chuyện với thủy thủ đoàn mà phần lớn là người Việt Nam. Đầu năm 1891, Công ty vận tải đường biển hủy bỏ các chuyến tàu giữa Sài Gòn và Manila, Yersin được thuyên chuyển sang làm việc trong các chuyến tàu giữa Sài Gòn và Hải Phòng. Tuyến đường mới này giúp ông khám phá thêm về Việt Nam và đặc biệt là thành phố Nha Trang mà ông chọn là nơi ông sống đến cuối đời. Ông còn bỏ tiền ra mua một chiếc ca-nô để đi thám hiểm các vùng sâu và xa khác tại Việt Nam. Trong các chuyến thám hiểm ở những vùng hẻo lánh, ông trị bệnh cho dân làng hoàn toàn miễn phí. Mùa Đông năm 1892 Yersin trở về Âu châu thăm gia đình ở Thụy Sĩ và gặp gỡ các đồng nghiệp cũ ở Paris. Khi hay tin ông về Paris, Émile Roux hoan hỉ chờ đón Yersin tiếp tục nghiên cứu với ông nhưng Yersin đã quyết định bỏ sự nghiệp nghiên cứu khoa học ở Pháp. Trong chuyến quay lại Paris lần này, Yersin cho biết ông được dùng một bữa cơm tối với Louis Pasteur và được Pasteur tỏ ý vui mừng về những chuyến thám hiểm của ông.

5/ QL= Cuối thế kỷ thứ 19, Đông Dương hãy còn là một vùng rất hoang vu, chưa mấy ai chú ý đến. Xin anh kể về những cuộc thám hiểm Đông Dương của BS. Yersin.

 QK= Tháng 1/1893, Yersin quay trở lại Sài Gòn. Lần này, Yersin được giao cho một chức vụ đúng với sở thích và ngành nghề mình: làm cao ủy Y tế thuộc địa.. Một trong những qui định của công việc là phải mặc quân phục và hành xử nghiêm chỉnh trong các buổi lễ. Nhưng Yersin không thể nào tuân hành theo qui định này, vì ông không thích mặc đồng phục. Ông muốn thoát khỏi Sài Gòn. Để thực hiện ý định này, ông tổ chức những đợt thám hiểm các vùng rừng núi thuộc miền Trung Việt Nam. 

1/ Cuộc thám hiểm thứ nhất: Cuộc thám hiểm của ông thường gặp phải khó khăn, vì mưa gió, sình bùn, và lụt lội. Trong một chuyến thám hiểm ông phải đổi cái máy hát mua ở Thụy Sĩ lấy một con voi để chuyên chở hàng hóa và dụng cụ.Từ Nha Trang, Yersin ra Ninh Hòa rồi vượt vùng núi Pleiku, Kontum, theo hướng Tây Bắc tiếp tục đi đến sông Cửu Long tại Stung Treng thuộc miền bắc Campuchia. Từ đó, Yersin thuê thuyền xuôi dòng xuống Phnom Penh vào ngày 15/5/1892. Sau đó, Yersin đi tiếp ra Phú Quốc rồi từ đó về Sài Gòn.Thành công của chuyến thám hiểm đầu tiên khiến Toàn quyền Jean Marie Antoine de Lanessan trao cho Yersin trách nhiệm khảo cứu việc mở một con đường từ Sài Gòn lên cao nguyên Trung Phần.

2/ Trong chuyến thám hiểm thứ hai này, Yersin đi đường bộ từ Biên Hòa ra Đồng Nai, lên Di Linh rồi đi tiếp đến cao nguyên Lâm Viên (Lang Bian).

3/ Cuối năm 1893, Yersin thực hiện cuộc thám hiểm thứ ba dọc dãy Trường Sơn. Từ Biên Hòa đến Đà Lạt, Yersin đi tiếp đến cao nguyên Đắc Lắc, vào tỉnh Attopeu phía nam của nước Lào. Từ đó, ông đi về hướng Đông ra biển. Yersin đến Đà Nẵng vào ngày 17/5/1894. Cuộc khảo sát lần thứ ba này thăm dò một vùng đất rộng lớn trải rộng từ vĩ tuyến 11 ở phía Nam đến vĩ tuyến 16 ở phía Bắc, và từ sông Mekong ở phía Tây đến bờ biển Việt Nam ở phía Đông. 

4/ Yersin chuẩn bị cho cuộc thám hiểm thứ tư. Ông dự định khảo cứu các vùng núi cao tại Cao Bằng, Lạng Sơn qua các tỉnh Quảng Đông, Vân Nam tại Trung Hoa tìm đến thượng nguồn sông Cửu Long. Tuy nhiên, chuyến thám hiểm thứ tư này phải bỏ dở vì vào năm 1894, dịch hạch bộc phát tại Quảng Đông, có khuynh hướng lan xuống Việt Nam.

6/ QL= Ở Đà Lạt có một ngôi trường trung học mang tên là Lycée Yersin. Có phải là để nhớ đến ông là người đã tìm ra thành phố Đà Lạt?

 QK= Trong chuyến thám hiểm Đông Dương lần thứ hai, Yersin đi đường bộ từ Biên Hòa ra Đồng Nai, lên Di Linh rồi đi tiếp đến cao nguyên Lâm Viên (Lang Bian). Trong nhật ký ngày 21/6/1893 ghi lại hành trình chuyến đi, Yersin cho biết, có vài làng của người sắc tộc Lạt (D’Lat) nằm rải rác trong vùng này. “Từ trong rừng thông bước ra tôi sửng sờ khi đối diện một bình nguyên hoang vu giống như mặt biển tràn đầy những làn sóng màu xanh lá cây. Sự hùng vĩ của rặng Lang Bian hòa lẫn vào đường chân trời Tây Bắc tạo nên bối cảnh tráng lệ, gia tăng vẻ đẹp của vùng đất này.”

Trước phong cảnh xinh đẹp, khí hậu mát dịu, có hồ, thác nước, rừng thông, Yersin nhớ lại quê hương tại Thụy Sĩ. Yersin nghĩ rằng đây là một nơi rất tốt để xây dựng một thành phố nghỉ mát. Ông đề nghị chính quyền Pháp tại Đông Dương nên làm điều đó. Về sau Toàn quyền Paul Doumer trong nổ lực phát triển kinh tế Đông Dương đã thực hiện đề nghị của Yersin. Vùng đất của người D’Lat đã ở là thành phố Đà Lạt ngày nay. Cuối thập niên 1930, người Pháp dự định phát triển Đà Lạt thành thủ đô mới của Đông Dương. Sau đó Đệ Nhị Thế Chiến diễn ra và Pháp không còn kiểm soát Đông Dương nên dự án này bị hủy bỏ. Nhiều người muốn biết tên Đà Lạt xuất phát từ đâu? Có người cho rằng đó là chữ viết tắt tiếng La Tinh của Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperem “Nơi mang lại niềm vui cho một số người và đem lại sức khỏe cho những người khác”. Thành ngữ La Tinh là do những người Âu Châu đặt ra từ tên Đà Lạt khi họ kinh nghiệm được những ích lợi của thành phố này.

 Tuy nhiên, tên Đà Lạt xuất phát từ chữ D’Lat trong nhật ký của Yersin. Đa có nghĩa là xứ, Lạt là Lạch. Đa Lạt là xứ của người Lạch. Về sau, người Việt viết thành Đà Lạt.

 7/ QL= Năm 1894 xảy ra một trận dịch hạch rất lớn ở Quảng Đông. BS Yersin đã có công rất lớn trong việc tìm thuốc chủng ngừa bệnh dịch hạch. Xin anh chia sẻ với thính giả về đóng góp quan trọng này của BS. Yersin.

QK= Năm 1894, dịch hạch bộc phát tại Quảng Đông giết chết khoảng 60.000 người. Sau đó, dịch hạch lan tràn tại Hông Kông và có nguy cơ lây sang Đông Dương. Tỷ lệ tử vong của trận dịch năm 1894 rất cao: 95% người nhiễm bệnh chết. Trước tình hình đó, chính quyền Pháp cử Yersin đến Hông Kông để nghiên cứu và tìm cách giúp đỡ. Ngày 15/6/1894, Yersin đến Hồng Kông và chứng kiến một cảnh tượng tang tóc: Đường xá chật chội đông người thuở nào nay trống trơn, đám tang khắp nơi, những cuộc an táng vội vã...3 ngày trước đó, Kitasato, một nhà khoa học danh tiếng người Nhật, cũng đến Hồng Kông để nghiên cứu về bệnh dịch. Với sự yểm trợ tài lực dồi dào của chính quyền thuộc địa Anh, Kitasato thành lập phòng thí nghiệm trong bệnh viện Kennedy Town. Trong khi đó, Yersin chỉ có một cái kính hiển vi. Người Anh cũng không cho ông khám nghiệm tử thi.Yersin hết sức ngạc nhiên về phương pháp làm việc của Kitasato: họ khám nghiệm máu rất kỹ càng và cẩn thận giảo nghiệm các cơ quan của tử thi, nhưng họ lại bỏ qua chỗ hạch bạch huyết bị sưng.

Sau 5 ngày làm quan sát viên, Yersin rất bực bội vì cảm thấy mình chẳng làm được gì. Ông quyết định làm một việc mà Y học ngày nay xem là … bất chính. Ông nhờ một người thông ngôn gốc Ý vốn có cảm tình với Pháp hối lộ những thủy thủ người Anh để mua cho ông vài xác chết (vì lúc đó các thủy thủ này có nhiệm vụ vận chuyển xác chết). Ngày 20/6/1894 Yersin có được 1 xác chết và bắt tay vào làm việc ngay. Ông cắt phần hạch bạch huyết bị sưng và lập tức dùng kính hiển vi khám nghiệm. Ông phát hiện những vết mờ nhạt có hình cái que với hai đầu tròn. Khi thử nghiệm với Gram stain, kết quả âm tính, nhưng với baccillus stain thì dương tính. Sau khi làm thí nghiệm trên 5 con chuột khác, kết quả tương tự. Hai ngày sau, Yersin báo cho chính quyền thuộc địa Anh biết về phát hiện của mình. Yersin là người đầu tiên chứng minh trực khuẩn này sống trong chuột và có thể lây sang người qua bọ chét. Về sau các khoa học gia đặt tên trực khuẩn đó là Yersinia pestis, theo tên của Yersin. Nguồn gốc dịch hạch đã giết hàng trăm triệu người trên thế giới suốt mấy ngàn năm qua đã được Yersin tìm ra chưa đầy 1 tuần lễ, lúc đó ông mới có 31 tuổi ! Việc khám phá vi trùng bệnh dịch hạch làm Yersin nổi tiếng, tuy nhiên, điều quan trọng đối với ông không phải là việc tìm ra mầm bệnh mà là làm thế nào để tìm thuốc chữa bệnh. Là một người nhạy cảm và đầy lòng yêu thương, trước việc chứng kiến hàng chục ngàn người phải chết vì dịch hạch, năm sau Alexandre Yersin gạt bỏ những dự tính khác qua một bên, ông trở lại Viện Pasteur Paris cộng tác với Émile Roux tìm cách chế huyết thanh chữa bệnh dịch hạch. Sau khi việc nghiên cứu hoàn tất, vài tháng sau, Yersin quay lại Nha Trang thành lập một phòng thí nghiệm để chế tạo huyết thanh tại Đông Dương.

Yersin tin rằng nếu Đông Dương có khả năng sản xuất đủ huyết thanh với lượng lớn thì giúp ích rất nhiều cho việc chữa trị khi dịch bệnh xảy ra tại Trung Hoa, bởi vì chỉ trong vài ngày thuốc có thể đến tay người bệnh, trong khi đó, nếu chở thuốc từ Pháp gởi sang thì phải mất hàng tháng và người nhiễm bệnh sẽ không sống sót trong khoảng thời gian đó. Cùng với phòng thí nghiệm của Albert Calmette ở Sài Gòn, cơ sở nghiên cứu tại Nha Trang là tiền thân của Viện Pasteur Đông Dương. Để có huyết thanh chế tạo thuốc, cần phải có nhiều máu. Với uy tín sẵn có, Yersin xin chính quyền Đông Dương cấp đất để ông lập một trại nuôi ngựa cho mục đích này. Năm 1896, chính quyền Đông Dương cấp cho Yersin trại Suối Dầu. Ba năm sau (1899), Thường Trú Sứ của Pháp tại Trung Kỳ cấp cho Yersin thêm 500 mẫu đất tại Khánh Hiệp gần Diên Khánh. Huyết thanh sản xuất từ những trại nuôi ngựa này đã giúp cứu sống hàng ngàn người mắc bệnh dịch hạch tại Ấn Độ và Trung Hoa trong những năm về sau.

8/ QL= Là sinh viên Y Khoa VN, chắc ai cũng nhớ đến BS. Yersin là người có công trong bước khởi đầu của trường Y học- Dược học tại Đông Dương. Xin anh cho biết BS. Yersin đã làm những gì trong giai đoạn này.

QK= Biết được uy tín của Yersin, năm 1902 Toàn Quyền Paul Doumer yêu cầu Yersin ra Hà Nội giúp thành lập Trường Y học- Dược học (được gọi nôm na là Trường Thuốc). Đây là trường Y khoa đầu tiên của Đông Dương và Alexandre Yersin là giám đốc đầu tiên của trường này. Có nhiều giáo sư và bác sĩ thuộc nhiều chuyên khoa của Đại học Y Khoa Paris qua giảng dạy. Lúc đầu, trường đào tạo các “Y Sĩ Đông Dương”, sau này trường đào tạo các bác sĩ Ykhoa. Khi mới mở, trường thuốc tọa lạc ở ấp Thái Hà với một bệnh viện 40 giường làm nơi thưc tập cho sinh viên. Sau vài tháng, trường dọn về đường Bobillot ở Hà Nội và nhà thương Phủ Doãn (nay là bệnh viên Việt Đức) trở thành bệnh viện thực tập của sinh viên. Năm 1936, sau khi 4 giáo sư Việt Nam của trường qua Paris và đậu giáo sư thạc sĩ Y Khoa Đại học Pháp (Professeur agrégé en Médecine), trường Y học được nâng lên thành Đại học Y Khoa để đào tạo Tiến sĩ Y Khoa tương đương với Tiến sĩ Y Khoa ở Pháp.

Bên cạnh việc sáng lập, Yersin có trách nhiệm chiêu sinh cho trường Đại Học Y Khoa Hà Nội. Vào thời gian đó, chính quyền Đông Dương muốn lấy lòng dân Việt Nam nên tổ chức nhiều chương trình giáo dục, văn hóa, thể thao cho giới trẻ nhưng đa số thanh niên Việt Nam vì tinh thần chống Pháp nên bất hợp tác. Làm thế nào để kêu gọi sự hợp tác của thanh niên Việt Nam, đó là điều mà chính quyền Đông Dương lúc đó rất quan tâm. Đối với Yersin, việc chiêu sinh ở Việt Nam không khó bởi vì ông có lòng thương người và ông được thanh niên Việt Nam quý mến. Nhiều thanh niên trên toàn cõi Đông Dương, phần lớn là người Việt, đã xin học tại Đại Học Y Khoa Hà Nội.Yersin không phải là người thích quyền hành và ông cũng không thích chính sách cai trị của người Pháp tại Đông Dương. Tuy nhiên, một số chương trình chính quyền Đông Dương yêu cầu Yersin tham gia, ông đã sẵn lòng hợp tác vì Yersin tin rằng những điều ông làm có ích cho nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Trong hai năm đầu, dầu giữ chức vụ Hiệu trưởng Đại Học Y Khoa Hà Nội, Yersin dành nhiều thời gian tại Nha Trang hơn tại Hà Nội. Đến năm 1904, ông xin từ chức để dành trọn thời giờ nghiên cứu tại Nha Trang.

 Giáo sư Đoàn Xuân Mượu cho biết trong suốt hơn 100 năm qua, Đại Học Y Khoa Hà Nội mà Yersin sáng lập đã đào tạo biết bao nhân tài cho Việt Nam. Các bác sĩ từ trường này đã cứu chữa biết bao người Việt trong những năm sau đó.

9/ QL= Sau khi rời Trường Thuốc, BS. Yersin đã trở về công việc nghiên cứu của ông. Xin anh kể tiếp về công tác rất quan trọng này của ông và đã trở thành một công trình lớn lao và hữu ích mà chính phủ Pháp rất hãnh diện ở Đông Dương.

QK= BS YERSIN đã cống hiến rất nhiều cho Việt Nam :

- Năm 1905, phòng thí nghiệm của Yersin ở Nha Trang được nâng cấp trở thành Viện Pasteur Đông Dương. Đây là Viện Pasteur thứ hai trên thế giới. Bên cạnh các phòng thí nghiệm tại Nha Trang và Sài Gòn, trong những năm về sau, Yersin mở thêm các viện Pasteur tại Hà Nội (1920) và Đà Lạt (1936).

- Yersin nổi tiếng là nhà nghiên cứu về vi sinh học và là một nhà nghiên cứu địa dư. Tuy nhiên Yersin cũng là nhà nghiên cứu khí tượng và thiên văn. Yersin có lần nói rằng: “Tôi là người nghiên cứu thế giới vi mô nhưng làm sao tôi bỏ qua thế giới vĩ mô được.” Qua những công trình nghiên cứu địa lý, thiên văn, và qua ảnh hưởng của Yersin, chính quyền Pháp tại Đông Dương đã cho thành lập Sở Địa Dư (Service Géographique), Sở Địa Chất (Service Géologique), Sở Khí Tượng (Service Météorologique), Đài Thiên Văn (Observatoire), và Hải Học Viện (Institut Océanographique). Đây là những cơ sở nghiên cứu khoa học đầu tiên của các ngành này tại Việt Nam.

-Từ đầu thế kỷ 20, thành phố Nha Trang được nhiều người trên thế giới biết đến nhờ Yersin định cư tại đây.Yersin cho trồng cao su tại Việt Nam vào năm 1899. Mùa thu hoạch đầu tiên đã được hãng Michelin mua, vỏ xe của Michelin ngày nay nổi tiếng khắp thế giới.

- Nhờ Yersin, Việt Nam ngày nay trở thành một trong những nước sản xuất cà phê nhiều nhất trên thế giới. Những công ty trà và cà-phê Việt Nam thành công trong việc kinh doanh hiện nay một phần nhờ công của Yersin. Hàng trăm ngàn người Việt ngày nay có việc làm và cuộc sống ổn định nhờ trồng hoặc chế biến trà, cà phê, đào, mận, dâu, cà rốt, bắp cải, rau quả mà Yersin đã nghiên cứu trồng gần 100 năm trước. Nhiều loại rau trái cây mà người Việt dùng hàng ngày do Yersin nhập vào lúc đó. Alexandre Yersin đã sống tại Việt Nam hơn 50 năm. Thật khó có thể phân tích đầy đủ giá trị những cống hiến của Yersin cho Việt Nam.

- Việc sáng lập ngành thú y Việt Nam, việc nghiên cứu về nông lâm súc, việc trồng cây ký ninh đã dẫn đến thành công trong việc chế tạo thuốc trừ sốt rét là một bệnh nguy hiểm tại Việt Nam và Á Châu vào lúc đó. Đây cũng là một đóng góp rất quan trọng cho ngành dược tại Việt Nam.

BS YERSIN lúc 77 tuổi                                       Mộ của BS YERSIN tại Suối Dầu, Nha Trang

10/ QL= BS. Yersin ngoài đóng góp về Y khoa tại Đông-Dương, ông đã đóng góp rất nhiều cho nhà nông Việt Nam. Xin mời anh chia sẻ với thính giả.

QK= Trở lại việc thám hiểm khảo sát Đông Dương, trước Yersin, người Pháp đã thực hiện vài cuộc thám hiểm Đông Dương do Doudart de Lagree và Francois Garnier (1860) và Auguste Pavie (1879), tuy nhiên những cuộc khảo cứu này không chính xác và không phân tích rõ ràng như của Yersin. Trong bản tường trình về cuộc khảo cứu của mình, Yersin viết như sau: “Ở miền Nam, đất đai trù phú phù hợp cho việc làm nông. Miền Trung thích hợp cho việc chăn nuôi. Miền Bắc giàu khoáng sản. Đây là tài nguyên của dân địa phương. Chúng ta có thể trồng thêm các cây nhiệt đới như trà, cà-phê, các loại rau, trại chăn nuôi và dầu thực vật.” 

 Sống với dân Việt Nam, Yersin biết trâu bò là nguồn năng lực cho nhà nông. Sẵn có đất, Yersin mở rộng nghiên cứu việc chữa bệnh cho gia súc. Trung tâm thí nghiệm của Yersin trở thành viện thú y đầu tiên ở Đông Dương. Trong khi cuộc thám hiểm của Doudart de Lagree và Francois Garnier dẫn đến chiến tranh tại miền Bắc, Yersin muốn mục tiêu cuộc thám hiểm của mình mang lại hòa bình và thịnh vượng. Yersin khuyên chính quyền Pháp không nên tham lam chỉ giành lợi cho mình nhưng phải chú trọng đến quyền lợi của người bản xứ. Về sau, chính quyền Pháp tại Đông Dương đã làm theo rất nhiều đề nghị của Yersin. Không chờ chính phủ Pháp thực hiện lời đề nghị của ông, khi có đất, Yersin bắt đầu thực hiện việc nghiên cứu những cây trồng mang lại ích lợi lâu dài cho Việt Nam. 25 năm còn lại của cuộc đời, Yersin đã chú tâm vào việc nghiên cứu thực vật. Yersin cho nhập các giống trà, cà phê, ca cao, cao su, cọ, dừa, các loại cây ăn trái, dâu, mận, cà-rốt, bắp cải, sú-lơ. Ông cho trồng thí nghiệm những loại cây và rau này trên những loại đất và địa hình khác nhau. Sau khi nghiên cứu, Yersin hướng dẫn cách trồng và giới thiệu cho nhà nông. Năm 1915, Yersin cho trồng cây ký ninh tại Hòn Bà để chiết dược thảo làm thuốc trừ sốt rét.

11/ QL= Là một người tận tụy và gắn bó với dân tộc Việt Nam, cuộc đời BS. Yersin kết thúc như thế nào? Xin anh chia sẻ với thính giả.

 QK= Yersin đã đi hầu như khắp thế giới nhưng một khi đã biết tới Nha Trang mà ông xem là thiên đường, ông không rời nó nữa, ông làm cho nó đẹp thêm, ông lập ra ở đó một Viện Pasteur. Người dân tại Nha Trang thời đó gọi ông bằng một cái tên thân thương, trìu mến: “Ông Năm”.

Năm 1943, sau hơn 50 năm sống tại Việt Nam, Alexandre Yersin qua đời tại Nha Trang. Học giả Thái Văn Kiểm viết: “Và sáng sớm ngày 1/3/1943, từ Viện Pasteur Nha Trang, ông nhìn lần cuối cùng về biển Nam Hải, rồi ông nhắm mắt từ giả cõi đời trở về nước Chúa.”

Lúc Yersin qua đời, người Nhật đã chiếm Đông Dương, tại Pháp nước Pháp cũng mất vào tay người Đức, do đó chính quyền Pháp không thể làm gì để vinh danh ông. Theo ước nguyện của Alexandre Yersin, ông được an táng tại Suối Dầu. Do Yersin không có thân nhân tại Việt Nam, một số người Việt vì lòng yêu mến Yersin đã chăm sóc phần mộ của ông. Đây là nguyện ước cuối cùng của ông:

 “Yersin muốn được chôn cất theo nghi lễ Việt Nam, có khói hương và lễ cúng bốn mươi chín ngày, có treo phướn trắng. Người ta sẽ đốt vàng mã, đặt trên bàn thờ người vừa khuất một bát cơm, một quả trứng luộc, một con gà luộc, một nải chuối. Ông muốn được chôn ở Suối Dầu, nửa đường từ Nha Trang đi Hòn Bà, ngay giữa trung tâm của thế giới và của khu đồi. Ông đã chọn biến vương quốc của mình từ hàng chục nghìn hecta thành chỉ còn hai mét vuông”.

Bác sĩ Yersin để lại tất cả tài sản ông sở hữu cho Viện Pasteur Đông Dương rồi Viện sẽ làm gì cảm thấy thích hợp; các thiết bị thiên văn học Viện không có khả năng sử dụng thì chuyển cho Đài thiên văn Phù Liễn ngoài Bắc… Ông mong muốn những người Việt từng phục vụ ông mỗi người sẽ nhận một món trợ cấp suốt đời trích từ tiền lãi số cổ phiếu mà ông đã mua sẵn nhằm mục đích ấy tại Ngân hàng SHB chi nhánh Sài Gòn.

Theo Đại sứ Pháp Jean-Noel Poirier, tên tuổi Yersin tại Việt Nam được biết đến còn nhiều hơn ở cả nước Pháp.

Theo Patrick Deville, tác giả quyển: Dịch hạch và Thổ tả (Peste et Cholera), Việt Nam có nhiều công trình và đường phố mang tên hai nhà bác học Pháp Pasteur và Yersin nhất. Trong tác phẩm viết về Yersin, Patrick Deville chỉ cho mọi người thấy, ngày nay bên bờ biển Nha Trang, “Ở Suối Giao nay gọi Suối Dầu có ngôi mộ màu xanh da trời nằm trên ngọn đồi nhỏ. Phía trái, một ngôi miếu màu cam và vàng cắm đầy chân hương. Hai mét vuông màu xanh da trời lãnh thổ Việt Nam” đó là nơi nhà thám hiểm, người lữ hành không mệt mỏi tìm thấy chốn an nghỉ cuối cùng. Và tiếp luôn sau, tác giả dành mấy dòng khái quát nội dung tác phẩm của mình bằng ký họa: “Cuộc đời Yersin như cuộc đời vị thánh. Một ẩn sĩ rút vào sống trong một căn nhà gỗ nơi khu rừng rậm giá lạnh, thoát khỏi mọi ràng buộc xã hội, đời ẩn sĩ, một con gấu, một con người man dã, một thiên tài độc đáo, một người rất kỳ quặc”.

QL= Thời gian dành cho chương trình Văn Hóa Việt sắp chấm dứt. Chúng tôi xin mời BS Khoáng cho lời kết về đề tài hôm nay.

QK= Alexandre Yersin là một khoa học gia nổi tiếng thế giới. Ông đã sống và làm việc tại Việt Nam hơn 50 năm và chọn Việt Nam làm quê hương. Alexandre Yersin là Giám đốc của Viện Pasteur tại Đông Dương. Ông cũng là người sáng lập và là Viện Trưởng đầu tiên của Viện Đại Học Y Khoa Hà Nội. Bác sĩ Yersin cũng là một nhà thám hiểm, một nhà nghiên cứu về canh nông và là một khoa học gia nổi tiếng trên thế giới về vi trùng học.

Năm 1916, Alexandre Yersin được mời vào Viện Hàn Lâm Khoa Học Pháp. Năm 1927, Yersin được trao tặng giải Lecomte của Viện Hàn Lâm Khoa Học Pháp. Sau khi Pasteur, Roux, Calmette lần lượt qua đời, năm 1934, Alexandre Yersin được mời làm giám đốc danh dự Viện Pasteur Paris. Chức vụ này buộc ông mỗi năm phải về Pháp một lần để họp. Năm 1940, Yersin về thăm Pháp lần cuối cùng khi Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ.

Theo tôi, với tất cả những gì ông đã làm mà không hề nói, không hề kể công với bất cứ ai, với bất cứ tổ chức nào để được vinh danh thì ông ít nhất cũng ngang hàng với Albert Schweitzer, khôi nguyên giải Nobel Hòa Bình năm 1952. Ông là một thầy thuốc thực hiện tuyệt vời lời thề Hippocrate, ông là gương sáng chói cho tất cả chúng ta noi theo. Cuối cùng, tôi chỉ có thể kết luận về ông bằng một cụm từ: “Thánh nhân vĩ đại”.

Trước khi dứt lời, tôi xin cám ơn chị Quý Linh và đài Sài Gòn- Houston đã tổ chức buổi nói chuyện hôm nay. Xin cám ơn quý vị thính giả của đài SàiGòn- Houston đã theo dõi.

QL= Xin cảm ơn BS Nguyễn Quý Khoáng đã chia sẻ nhiều chi tiết rất hay về cuộc đời và sự nghiệp BS. Yersin. Xin cảm ơn anh đã dành thì giờ quý báu đến với chương trình Văn Hóa Việt.

Xin cảm ơn quý thính giả đã theo dõi chương trình và xin hẹn gặp lại quý vị trong chương trình lần tới.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1/ Alexandre Yersin là ai? BTV sưu tầm/ Blog khoa học.net

2/ “Peste et Cholera”, tác giả Patrick Deville, Đăng Thế Linh dịch, Phan Quang giới thiệu.

3/ Tiểu sử Alexandre Yersin, trích từ sách: “Những người Tin Lành đầu tiên đến Việt Nam” trong Thư viện Tin Lành.

4/ Trường Y Dược trích từ sách : Lịch sử Việt Nam từ Thuộc Pháp đến Độc Lập (1858-1945) của tác giả Ngô thị Qúy Linh, trang 76-77.

5/ Các videos về cuộc đời của BS Alexandre Yersin:

a/ Yersin.mp4 : https://www.youtube.com/watch?v=RWgMmUMAlUQ

b/ “Cuộc gặp gỡ với rồng và mây” ( À la rencontre du dragon et des nuages): https://www.youtube.com/watch?v=4Beb38RIkGI

c/ “Sống mà không dịch chuyển thì không phải là sống”:

phần1: https://www.youtube.com/watch?v=66lYZpxyWRw

phần2: https://www.youtube.com/watch?v=LZOxcNjp_u0

phần 3: https://www.youtube.com/watch?v=KIEg_YpgJJo.