In bài này

THIỀN

Meditations (Krishnamurti)

Chúng ta là những tồn dư, những người chỉ biết vâng dạ của hàng ngàn ngày hôm qua, một chuỗi liên tục của những ký ức bất tận, của chọn lựa và tuyệt vọng. Đại ngã và Tiểu ngã là mô hình của hiện hữu mà hiện hữu là tư duy và tư duy là hiện hữu, với nỗi đau khổ triền miên. Trong ngọn lửa thiền, tư duy chấm dứt cùng với cảm giác, vì cả hai không phải là tình yêu. Không có tình yêu thì không có tinh chất; không có tình yêu thì chỉ có tro tàn mà sự hiện hữu của chúng ta lại dựa trên mớ tro tàn đó.Tình yêu đến từ sự trống rỗng.

*                 *                 *

Bất cứ mọi uy quyền đặt để lên thiền là chối bỏ thiền. Tất cả mọi kiến thức, khái niệm, mọi gương mẫu đều không có chỗ đứng trong thiền. Loại bỏ hoàn toàn người hành thiền, người kinh nghiệm, người tư duy là tinh chất của thiền. Sự tự do này là hoạt động hằng ngày của thiền. Người quan sát là quá khứ, mảnh đất của người quan sát là thời gian, mọi ý nghĩ của người quan sát, hình ảnh, bóng tối đều bị neo chặt trong thời gian. Kiến thức là thời gian, và tự do khỏi cái đã biết là sự nở hoa của thiền. Theo chân một người nào khác, theo gương sáng của họ, theo những gì họ nói, là xua đuổi chân lý.

Chỉ qua tấm gương của sự tương giao bạn mới thấy được bộ mặt của “cái đang là”. Người thấy là vật bị thấy. Nếu không có được trật tự do đức hạnh mang lại, thiền và những khẳng định bất tận của người khác không có ý nghĩa chút nào; chúng hoàn toàn không thích hợp. Chân lý không có truyền thống, nó cũng không thể được truyền lại.

 *                *                *

Điều quan trọng không phải là kiểm soát tư tưởng mà là thấu hiểu nó, thấu hiểu được nguồn gốc của tư tưởng trong chính bạn. Nghĩa là não bộ lưu trữ ký ức - bạn có thể tự quan sát điều này, bạn không cần phải đọc những 

quyển sách nói về nó. Nếu không lưu trữ ký ức thì não bộ không thể tư duy. Ký ức là kết quả của kinh nghiệm, của kiến thức - của bạn, hay của cộng đồng, của gia đình, của nòi giống và vân vân. Tư tưởng phát sinh từ cái vựa chứa của ký ức đó. Vì thế tư tưởng không bao giờ tự do, nó luôn cũ kỹ, không có điều gì được gọi là tự do của tư tưởng. Tư tưởng không bao giờ tự do trong chính nó; nó có thể nói về tự do, nhưng bản chất của tư tưởng là kết quả của ký ức quá khứ, là kết quả của kinh nghiệm và kiến thức; do đó tư tưởng luôn cũ kỹ. Dĩ nhiên con người cần phải có sự tích lũy kiến thức này, nếu không có sự tích lũy kiến thức con người không thể sinh hoạt, không thể nói chuyện với người khác, không thể biết đường về nhà, và vân vân. Kiến thức là cần thiết…

Nếu thiền là sự diễn tiến của kiến thức, là sự tiếp nối của mọi điều mà con người đã tích tập, lúc đó không có tự do. Chỉ có tự do khi có sự thấu hiểu chức năng của kiến thức và do vậy thoát ra khỏi kiến thức.

Thiền là làm trống rỗng nội dung của ý thức, cái đã biết, cái “tôi”

 *                  *                 *

Có nhiều trường thiền khác nhau, ở Ấn Độ và Viễn Đông dạy các phương pháp thiền - thật kinh khủng. Có nghĩa là họ huấn luyện tâm trí một cách máy móc; vì vậy đã ngăn chặn tự do và không còn thấu hiểu được vấn đề.

Như vậy khi dùng chữ “thiền” chúng ta không muốn nói đến một điều gì đó được luyện tập. Chúng ta không có phương pháp. Thiền có nghĩa là tỉnh thức, nhận biết những gì bạn đang làm, những gì bạn đang suy nghĩ, những gì bạng đang cảm giác, nhận biết mà không chọn lựa, chỉ quan sát và nhận biết. Thiền là nhận biết tình trạng điều kiện hóa của chính mình, biết mình bị khuôn định như thế nào bởi xã hội mà chúng ta sống trong đó, mình được nuôi nấng, giáo dục, bởi sự tuyên truyền tôn giáo - nhận biết mà không có bất kỳ sự lựa chọn nào, bóp méo nào, không mong muốn nó là một cái gì khác. Từ việc nhận biết này phát sinh sự chú tâm, năng lực chú ý hoàn toàn. Bấy giờ có tự do nhìn ngắm mọi sự mọi vật như chúng thật sự là, mà không bóp méo. Tâm trí trở nên hết bối rối, trong sáng và nhạy bén. Thiền như thế mang lại một phẩm chất của tâm trí hoàn toàn yên lặng - con người có thể nói về phẩm chất này, nhưng nó sẽ không có ý nghĩa trừ phi nó hiện hữu.

Dịch giả: HUY PHẠM

Download